Tiểu đường týp 2 được định nghĩa bởi tình trạng tăng đường huyết mạn tính đã và đang là một trong những mối đe dọa chủ yếu đến sức khoẻ con người ở vào thế kỷ XXI của chúng ta. Tại Pháp có hơn 3,35% dân số bị đái tháo đường và tỷ lệ tăng thêm hàng năm ước tính là 3,2%. Tiểu đường là một nguy cơ chính của các bệnh tim mạch. Nguy cơ tử vong do nhôì máu cơ tim ở bệnh nhân đái tháo đường cao gấp từ 2 - 10 lần so với người không đái tháo đường là một ví dụ minh chứng cho nhận xét nói trên.
Kết quả từ nghiên cứu UKPDS đã chỉ ra rằng những yếu tố nguy cơ của bệnh mạch vành có thể điều chỉnh và thay đổi được đó là tăng huyết áp động mạch, rối loạn lipid máu với LDL - C tăng, HDL - C giảm và nồng độ HbA1c. Với người bệnh tiểu đường týp II, những yếu tố nguy cơ này cần phải được kiểm soát hết sức chặt chẽ, nhất là đường huyết và/hoặc nồng độ HbA1c. Cấn nhấn mạnh rằng tần suất các biến chứng tim mạch do tổn thương vi mạch hay các mạch máu lớn đều liên quan đến sự cân bằng đường huyết và biến chứng tim mạch tăng lên rõ rệt ngay khi tỷ lệ HbA1c vượt quá 6%. Tỷ lệ nhồi máu cơ tim trong 10 năm giảm tới 15% nếu nồng độ HBA1c giảm 0,9%. Điều này chứng tỏ kiểm soát đường máu huyết là một mục tiêu đặc biệt quan trọng đối với bệnh nhân tiểu đường. Tuy nhiên theo khuyến cáo năm 2004 của Hội Tiểu Đường Hoa Kỳ thì không nên sử dụng hémoglobine A1c (HbA1c) như một chỉ số duy nhất để chứng tỏ sự ổn định về nồng độ đường trong máu bệnh nhân mà cần phải lưu ý đến lượng đường huyết sau ăn của người bệnh.
Tăng đường huyết sau ăn đóng vai trò hàng đầu trong biến chứng tim mạch ở bệnh nhân tiểu đường
Chỉ chú ý điều chỉnh nồng độ đường huyết khi đói ở bệnh nhân tiểu đường là chưa đầy đủ. Người ta nhận thấy tỷ lệ mắc bệnh tim mạch ở người tiểu đường týp II tương quan với lượng đường trong máu sau ăn và không liên quan với lượng đường trong máu khi đói. Điều chỉnh nồng độ đường huyết khi đói hoặc HbA1c hoặc cả hai mà không điều chỉnh đường huyết sau ăn sẽ không làm giảm được tỷ lệ mắc bệnh tim mạch ở người tiểu đường. Ngược lại, kiểm soát chặt chẽ đường huyết trước và sau ăn cho phép làm giảm có ý nghĩa tỷ lệ mắc bệnh tim mạch.
Ngay từ năm 1996, nghiên cứu DIS (The Diabetes Intervention Study) đã cho thấy tần suất nhồi máu cơ tim cao hơn 40% ở những bệnh nhân có nồng độ đường huyết sau ăn > 10 mmol/l so với những bệnh nhân có nồng độ đường huyết sau ăn < 8 mmol/l. Năm 1999, một loạt các nghiên cứu của nhóm DECODE (The DECODE Study Group) đã nhấn mạnh sự tương quan giữa mức độ tăng đường huyết sau ăn và nguy cơ tử vong tim mạch, độc lập với nồng độ đường huyết khi đói của bệnh nhân. Theo những nghiên cứu gần đây thì nguyên nhân của hiện tượng này là do những dao động tức thì của nồng độ đường trong máu sau ăn đã làm biến đổi sự giải phóng gốc tự do và biến đổi các sản phẩm tạo ra từ gốc tự do. Thêm vào đó, chức năng nội mạc của mạch máu cũng thay đổi và nồng độ ô xít ni tơ (NO) bị biến loạn. Ngoài ra, tăng đường huyết sau ăn gây rối loạn hoạt động chức năng của các sợi collagen trong cấu trúc mạch máu và giảm thiểu khả năng giãn của các mạch máu trong cơ thể người bệnh.
Kiểm soát đường huyết sau ăn là điểm quyết định quan trọng trong điều trị
Rõ ràng là hiện nay phần lớn bệnh nhân tiểu đường đều tử vong do các biến chứng liên quan đến vữa xơ động mạch. Trong số các yếu tố cơ bản thì tăng đường huyết mạn tính, thể hiện bằng nồng độ HbA1c giữ vị trí hàng đầu. Tuy nhiên, nhiều thử nghiệm điều trị có kiểm soát tiến hành ngẫu nhiên trên số lượng lớn bệnh nhân tiểu đường đã đưa ra những kết luận quan trọng về hiệu quả điều chỉnh đường huyết sau ăn trong phòng ngừa tiên phát và thứ phát bệnh lý tim mạch. Vì thế không nên quan niệm chỉ cần khống chế lượng đường trong máu khi đói và/hoặc HbA1c của bệnh nhân ổn định là đạt mục tiêu điều trị. Bình thường hoá và ổn định đường huyết khi đói, nồng độ HbA1c, nồng độ đường huyết sau ăn cần phải tiến hành một cách hệ thống và đồng bộ ngay từ khi chẩn đoán xác định người bệnh bị tiểu đường hoặc rối loạn dung nạp glucose là những quan niệm mới trong kiểm soát và điều trị tích cực (traitement intensifié) bệnh tiểu đường hiện nay.
Tiếp cận những nghiên cứu mới về phòng và điều trị bệnh tiểu đường
Thử nghiệm Stop Niddm (The Stop Niddm Trial - 2003) tiến hành điều trị bằng Acarbose trên quần thể những người rối loạn dung nạp Glucose đã chứng tỏ, cùng với các phương pháp điều trị không dùng thuốc (chế độ ăn uống, sinh hoạt...) Acarbose là một thuốc không chỉ có hiệu quả trong phòng bệnh tiểu đường mà còn có tác dụng phòng ngừa các biến chứng tim mạch và nhồi máu cơ tim vì so sánh với nhóm dùng giả dược, Acarbose làm giảm nguy cơ tương đối của bệnh lý tim mạch là 49% và giảm nguy cơ tuyệt đối là 2,5%, nguy cơ tử vong do bệnh tim mạch cũng giảm xuống một cách có ý nghĩa.
Kết quả của thử nghiệm Stop Niddm đã cho thấy hiệu quả phòng ngừa nguy cơ biến chứng tim mạch đối với người bệnh tiểu đường týp II bằng quan niệm điều trị tích cực: tiếp cận chẩn đoán sớm, điều trị đồng bộ nhằm bình thường hoá và ổn định đường huyết khi đói và đặc biệt là đường huyết sau ăn - một thái độ điều trị mà hiện nay đang rất cần được sự lưu ý đúng mức ngay cả đối với nhiều thày thuốc chuyên khoa.
TS. Tạ Mạnh Cường
Photo: Google.com.vn
|